Hiện nay, toàn thế giới đang phải đối mặt với gánh nặng dinh dưỡng kép bao gồm tình trạng thiếu dinh dưỡng và thừa dinh dưỡng. Theo thống kê từ báo cáo dinh dưỡng toàn cầu năm 2020, tỷ lệ người bị đói hoặc suy dinh dưỡng chiếm 1/9 và người thừa cân hoặc béo phì chiếm 1/3. Dinh dưỡng trong chế độ ăn uống đã được chứng minh có ảnh hưởng đến sức khỏe răng miệng trong một số nghiên cứu dạo gần đây.[1], [2]

Nghiên cứu mối liên hệ giữa dinh dưỡng và bệnh nha chu trên người bình thường và bệnh nhân viêm nha chu giai đoạn III-IV
Nghiên cứu xác định mối liên quan giữa chế độ dinh dưỡng nạp vào so với tình trạng nha chu thông qua đánh giá khẩu phần ăn (sử dụng bảng câu hỏi FFQ gồm 91 loại thực phẩm từ 13 nhóm khác nhau) và các thông số lâm sàng (PD, CAL, BOP). Varela và cộng sự (2024) đã tiến hành nghiên cứu trên 112 đối tượng, được chia thành 2 nhóm như sau:
- Nhóm không mắc viêm nha chu: 59 người.
- Nhóm mắc viêm nha chu giai đoạn III-IV: 53 bệnh nhân.
Kết quả
Một số yếu tố của chế độ ăn như tổng năng lượng nạp vào, tổng lượng chất béo, cholesterol, canxi, chất béo bão hòa, chất béo không bão hòa đơn, acid folic và i-ốt có liên quan đến trạng thái viêm nha chu. Trong đó:
- Cholesterol, i-ốt có tác động tiêu cực đối với viêm nha chu.
- Chất béo bão hòa, chất béo không bão hòa đơn và acid folic có ảnh hưởng trực tiếp đến viêm nha chu. [4]
Nghiên cứu mối liên hệ giữa dinh dưỡng và bệnh nha chu trên bệnh nhân viêm nha chu
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy chế độ ăn nhiều carbohydrate (bao gồm đường, bột tinh chế); nhiều chất béo bão hòa; ít vi chất dinh dưỡng, chất xơ, acid béo omega-3 có khả năng gây viêm. Do đó, Peikert và cộng sự (2024) đã tiến hành nghiên cứu hồi cứu, không can thiệp về mối liên hệ giữa dinh dưỡng và bệnh nha chu. Nghiên cứu thực hiện dựa trên một số chất dinh dưỡng có khả năng ảnh hưởng đến tình trạng viêm nha chu từ các nghiên cứu trước đó, bao gồm: carbohydrate, đường nội tại, chất xơ, acid béo, omega-3.
Nghiên cứu thực hiện đánh giá nha chu có hệ thống bao gồm tình trạng nha chu toàn miệng và các thông số lâm sàng như độ sâu thăm dò túi nha chu (PPD), mất bám dính lâm sàng (CAL), chảy máu khi thăm dò (BOP), tình trạng di động của răng (TM) và sang thương vùng chẽ (FI). Thực hiện nghiên cứu trên 50 bệnh nhân (BN) khoa Nha chu Trung tâm Y tế Đại học Feiburg từ 10/2021 đến 02/2023 và sử dụng bảng câu hỏi dinh dưỡng (DEGS). Trong đó, 13 BN viêm nha chu mức độ trung bình, 37 BN viêm nha chu mức độ nặng.
Kết quả
- Tổng 1283 răng được phân tích, trong đó, 59,97% răng cần điều trị.
- So với lượng dinh dưỡng có trong khuyến cáo, đối tượng nghiên cứu tiêu thụ nhiều đường, chất béo trong khi lượng chất xơ và đậu sử dụng chưa đủ.
- Việc sử dụng một số chất dinh dưỡng cụ thể như chất xơ hòa tan trong nước, các acid béo đặc biệt, vitamin (D, B1, B2, B6 và B12) và một số khoáng chất như sắt, kẽm giúp làm giảm các thông số lâm sàng như: diện tích bề mặt viêm nha chu (PISA), PPD, CAL, BOP.
- So với BN viêm nha chu mức độ nặng, BN viêm nha chu mức độ trung bình có chế độ ăn khác biệt hơn bao gồm (1) tiêu thụ ít bơ, bánh mì hơn; (2) ưa chuộng sản phẩm ngũ cốc nguyên hạt; (3) tiêu thụ ít đồ ngọt hơn, sử dụng nhiều trái cây hơn;(4) lượng chất xơ dùng nhiều hơn; (5) dung nạp một số vitamin như vitamin C, B6, kali, trà, ngũ cốc và trái cây nhiều hơn. [3]
Mối liên hệ giữa mô hình chế độ ăn, rối loạn ăn uống và bệnh nha chu
Tác động của mô hình chế độ ăn đối với bệnh nha chu
Mô hình chế độ ăn uống được phân tích dựa trên nhiều yếu tố như số lượng, sự đa dạng và sự kết hợp các loại thực phẩm và đồ uống. Chế độ ăn uống chứa lượng carbohydrate, đường, chất béo cao và lượng chất xơ thấp có liên quan đến bệnh nha chu.
- Chế độ ăn nhiều chất xơ, ít chất béo giúp cải thiện các thông số lâm sàng như độ sâu túi thăm dò (PD), mức bám dính lâm sàng (CAL), chảy máu khi thăm dò (BOP).
- Sức khỏe răng miệng kém ở người lớn tuổi có liên quan đến chế độ ăn uống kém, tổng năng lượng, tỷ lệ chất béo bão hòa cao và ít tiêu thụ trái cây, rau quả.
- Hạn chế tiêu thụ carbohydrate trong chế độ ăn kiêng 4 tuần giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng nướu.
Tác động của rối loạn ăn uống đối với bệnh nha chu
Rối loạn ăn uống dẫn đến tình trạng tiêu thụ thực phẩm không phù hợp làm giảm sức khỏe thể chất hoặc chức năng tâm lý xã hội. Một số dạng rối loạn ăn uống thường thấy bao gồm chán ăn tâm thần (Anorexia Nervosa – AN), chứng cuồng ăn (Bulimia Nervosa – BN) và rối loạn ăn uống vô độ. Rối loạn ăn uống có tác động tiêu cực đến sức khỏe răng miệng và có liên quan đến tiến triển bệnh nha chu.
- Bệnh nhân mắc bệnh chán ăn tâm thần có nhiều vị trí chảy máu khi thăm khám và tụt nướu hơn, tăng nguy cơ mắc viêm nha chu hơn so với người bình thường.
- Người mắc chán ăn tâm thần và chứng cuồng ăn có chỉ số mảng bám trung bình cao hơn so với người bình thường.
- Tình trạng tụt nướu >2mm xuất hiện ở bệnh nhân rối loạn ăn uống nhiều hơn so với người bình thường. [1]
Tài liệu tham khảo
1. Casarin M, da Silveira TM, Bezerra B, and et.al. (2023), Association between different dietary patterns and eating disorders and periodontal diseases, Front. Oral. Health, 4:1152031.
2. Global Nutrition Report [truy cập ngày 29/10/2024], 2020 Global Nutrition Report, https://globalnutritionreport.org/reports/2020-global-nutrition-report/
3. Peikert S.A., Liedtke N.B., Vach K., and et.al. (2024), Nutrition and Periodontitis: A Cross-Sectional Study from a Practice-Based Research Network, Nutrients, 16, 3102.
4. Varela-López, A., Bullon, B., Gallardo, I. and et.al. (2024), Association of specific nutritional intake with periodontitis, BMC Oral Health, 24, 640.