Theo kết quả thử nghiệm giai đoạn 3, nivolumab là một phương pháp điều trị u ác tính mới có thể cắt giảm hơn một nửa nguy cơ tử vong hoặc ung thư tái phát.
Ung thư hắc tố có nguy cơ tái phát và tử vong cao
Ung thư hắc tố là kết quả của sự phát triển không kiểm soát của các tế bào sản xuất sắc tố (tế bào hắc tố) trên da. U ác tính di căn là dạng nguy hiểm nhất vì có thể di căn sang các cơ quan khác. Ước tính sẽ có gần 100.000 người chết vì căn bệnh này trong vòng 15 năm tới.
TS. Georgina Long – Giám đốc y tế của Viện Melanoma Úc cho biết: Trong vòng 5 năm sau khi phẫu thuật, 1/3 bệnh nhân giai đoạn 2B và 1/2 bệnh nhân giai đoạn 2C có ung thư hắc tố tái phát.
Nivolumab hiện được chỉ định để điều trị cho những bệnh nhân bị u ác tính di căn như một phương pháp điều trị kết hợp. Nó cũng được chỉ định như một phương pháp điều trị kết hợp cho ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn và ung thư biểu mô tế bào thận. Nivolumab hiện đang được nghiên cứu trong chương trình điều trị 7 loại khối u khác nhau, trong đó có ung thư hắc tố ác tính.
Giảm tử vong và ung thư tái phát với liệu pháp nivolumab
CheckMate -76K là một nghiên cứu mù đôi, giai đoạn 3 ngẫu nhiên đánh giá nivolumab – một chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1, được lập trình nhằm khuyến khích hệ thống miễn dịch của cơ thể chống lại ung thư.
Dựa trên kết quả của thử nghiệm CheckMate-76K giai đoạn 3, các nhà khoa học đã đánh giá: nivolumab như một chất bổ trợ, có lợi đáng kể về khả năng không tái phát (RFS) ở bệnh nhân ung thư hắc tố giai đoạn 2B và 2C đã phẫu thuật cắt bỏ. Dữ liệu nghiên cứu đã chứng minh rằng nguy cơ tử vong hoặc tái phát ở những bệnh nhân dùng nivolumab đã giảm 58% so với nhóm dùng giả dược.
Tại phân tích tạm thời, CheckMate -76K đã đáp ứng tiêu chí chính là sống sót không tái phát bệnh. Sau 12 tháng sử dụng nivolumab ở những bệnh nhân tham gia thử nghiệm, tỷ lệ RFS đối với bệnh nhân u ác tính giai đoạn 2B là 93%; ở bệnh nhân u ác tính giai đoạn 2C là 84%. Trong nhóm giả dược, tỷ lệ RFS tương ứng là 84% và 72%. Các tác dụng phụ liên quan đến điều trị ở giai đoạn 3/4 ảnh hưởng đến 10% nhóm lâm sàng và 2% nhóm giả dược.
Dữ liệu nghiên cứu được trình bày tại Hội nghị thường niên tháng 10/2022 của Hiệp hội Nghiên cứu Ung thư hắc tố (SMR) ở Edinburgh, Scotland.